Trong một diễn biến khác, khi Viên Bản Sơ dã tâm bừng bừng so sánh, Phỉ Tiềm đang sống cuộc đời nằm thẳng. Áp lực thời Tam Quốc quá lớn, nhân vật trâu bò xuất hiện như lá mùa thu, hắn muốn lính không có lính, muốn trí không đủ trí, lấy gì chơi lại người ta? Thôi cứ an phận tìm một cái đùi ngon lành mà ôm lấy, có chuyện gì cũng dễ sống hơn. Nhưng trước mắt có vài chuyện cần giải quyết cho tốt. Phỉ Tiềm chấm nước trà và vẽ lên bàn, như vậy chỉ cần lau đi là không ai phát hiện. Trong phim có mấy chỗ nói cũng đúng, muốn sống lâu phải tập tính cẩn thận, có trời mới biết ai đang âm thầm theo dõi mình. Dựa theo trí nhớ Phỉ Tiềm biết nhà Hán có mười ba châu gồm Ung Châu, Dự Châu, Duyện Châu, Từ Châu, Thanh Châu, Lương Châu, Tịnh Châu, Ký Châu, U Châu, Dương Châu, Kinh Châu, Ích Châu, Giao Châu và khu Tư Lệ. Trước tiên hắn vẽ Lương Châu cùng U Châu, sau đó đem Ích Châu cùng Giao Châu kết nối lại. Lương Châu giáp biên giới Hung Nô, mấy năm nay cuộc sống cũng chả khấm khá gì. Phía U Châu cũng nát bét, người Hồ và người Tiên Ti cứ thiếu thứ gì là xông thẳng vào lãnh thổ nhà Hán để cướp bóc. Công Tôn Toản và đội bạch mã nghĩa tòng đang trấn thủ như một vị thần, nhưng chẳng lâu sau hắn sẽ bị Viên Thiệu đá bay. Giao Châu à? Nơi đây là chỗ dân Bách Việt sinh sống, họ có nền văn hóa riêng, tập tục khác xa nhau, chưa chắc sẽ chào đón dân bên ngoài vào. Ích Châu có lẽ không tệ, nhưng vấn đề là từ Lạc Dương đến Thành Đô ngươi phải bỏ qua một đống núi đá, không có máy bay xe lửa hay ô tô mà phải cuốc bộ… Tịnh Châu, hừm, quên đi, Đổng Trác vừa vào kinh đã hạ chỉ chém bay đầu Đinh Nguyên, sau đó toàn bộ quân Tịnh Châu đi theo Lữ Bố chạy đông chạy tây, một thời gian dài nơi này không hề có một nhóm quân đội nào phòng thủ, Hung Nô cứ được dịp tràn đến cướp bóc. Thanh Châu, Dự Châu, Duyện Châu, Ký Châu là bốn châu chịu thiệt hại nặng nhất trong lúc loạn khăn vàng diễn ra, đến tận bây giờ giặc khăn vàng vẫn còn tồn tại. Phỉ Tiềm nhớ hầu hết tám phần chiến tranh đều diễn ra ở khu vực này cho đến tận cuối thời Tam Quốc. Chỉ còn lại có Từ Châu, Dương Châu, Kinh Châu được xem là đất lành chim đậu. Phỉ Tiềm xoa cằm suy nghĩ, dựa theo lịch sử Từ Châu sẽ chịu nạn binh biến do Tào Tháo báo thù cho cha, Lữ Bố và Lưu Bị đánh nhau cũng chết không ít người, quá phiền toái, thôi không đến Từ Châu nữa. Kinh Châu có vẻ ổn, khá yên bình cho đến tận đại chiến Xích Bích, sau khi Xích Bích diễn ra, nơi này bị ba nhà chia nhau, nhiều lần đổi chủ, tử thương vô số…. Vậy chỉ còn lại Dương Châu, ừ nhỉ, trong lịch sử ở đây là nơi yên bình nhất, Tiểu Bá Vương Tôn Sách chết sớm, nhưng lại không gặp phải nhiều sóng gió, ngoại trừ chịu lây ảnh hưởng từ trận Xích Bích ra, đến tận thời hôn quân Tôn Hạo cũng chưa từng bị nhà Ngụy tấn công. Phỉ Tiềm đã quyết định chọn Dương Châu!
Sau khi giải quyết xong nơi định cư mới, như vậy vấn đề tiếp theo chính là ăn ở ngủ nghỉ ra sao, nói cách khác là “tiền”. thời Hán mạt sử dụng tiền ngũ thù (thù là đơn vị trọng lượng cổ đại, 24 thù = 1 lượng, tiền này nặng 4gram, tương đương 100 hạt kê). Vào thời đại này đồng là tài nguyên quý, số lượng ít nên không đủ sức cung ứng thị trường, do đó các chợ thường dùng hình thức vật đổi vật ngang giá để giao dịch.Vàng hoặc Bạc rất ít người sử dụng, đa số chỉ mang tính chất giống hệt như chi phiếu đổi ngân hàng của thời hiện đại. Phỉ Tiềm bấm ngón tay tính toán, trước đó hắn bán 2 ngọc lưu ly đổi được một chút vàng, nhưng Tam Quốc chiến loạn liên mien, giá hàng hóa thể nào cũng bị đẩy lên cao, chút vàng này chả dùng được bao lâu cả. Như vậy mình nên tiếp tục nghiên cứu thêm, sau khi đến Dương Châu có thể mở một cửa hàng bán lưu ly sống qua ngày! Quá tốt, con đường phát tài đây rồi, cứ thế mà làm.
Phỉ Tiềm bắt đầu tính đến việc chọn “minh chủ”. Hắn dùng nước trà viết 3 cái tên Tào Tháo, Lưu Bị, Tôn Quyền lên bàn. Nếu xét về kẻ thắng cuộc cuối cùng thì đó chắc chắn là nhà Ngụy. Tào Tháo là chúa công đáng để phò tá, vừa tài năng vừa biết nghe ý kiến hay, nhưng bản tính đa nghi, dưới trướng hắn cũng rất nhiều người tài âm hiểm, làm sao mình cạnh tranh lại? Lỡ xui xẻo bị phái đi làm huyện lệnh Tây Lương thì toi đời. Tôn Quyền à, cả đời ông anh này đều dùng để đấu tranh quyền lực với sĩ tộc Giang Đông, nhà họ Tôn trải qua ba đời vẫn không thể giải quyết được chúng, ví dụ tốt nhất là trước Xích Bích suýt chút nữa bị bọn họ đem đi bán, mình là một thằng cha khố rác áo ôm không gốc rễ, phép vua thua lệ làng, lấy cái gì chơi lại được? So ra Lưu Bị có vẻ dễ bao dung thuộc hạ hơn hai nhà kia, nhưng sử sách nhận xét hắn tính cách giống hệt Hán cao tổ Lưu Bang, gian manh bạc bẽo, chẳng qua bất đắc dĩ phải suốt ngày rao giảng đạo lý. Thử nghĩ xem, một kẻ lang bạt khắp nơi, cứ theo phe ai là người đó gặp họa. Công Tôn Toản dang rộng vòng tay bao nuôi hắn, kết quả hắn đào luôn góc tường nhà người ta mang Triệu Vân đi. Chạy sang chỗ Đào Khiêm ở nhờ, cuối cùng được thừa kế địa bàn mà còn giữ không xong. Vừa về đội Tào Tháo, được quý anh họ Tào trao chức vụ là lập tức phản luôn. Viên Thiệu nhận về nhà thì chưa lập được công đã hại chết hai mãnh tướng của hắn. Theo phe Lưu Biểu thì nuốt luôn địa bàn không trả lại cho con hắn, theo Lưu Chương cũng chẳng khá khẩm hơn. Phỉ Tiềm cảm thấy rất đồng tình với những comment trên diễn đàn rằng Lưu Bị có khả năng mang mệnh Thiên Sát Cô Tinh….. Được rồi, tạm thời gác lại chuyện này, cứ lo sống sót trước đã, sau khi sống tốt rồi mới tính đến việc chọn đại ca. Phỉ Tiềm đột nhiên cảm thấy có chút đói bụng, ngày ăn hai bữa cơm đúng là khó chịu thật, đành gọi vọng ra cửa:
“Phúc thúc! Phúc thúc! Nhà còn gì ăn không, ta đói bụng!”
Nói đi cũng phải nói lại, ông chú này cái gì cũng tốt đời đẹp đạo, chỉ riêng mỗi việc ăn thì thôi, bất cứ lúc nào lão cũng sẵn sàng làm đồ ăn cho Phỉ Tiềm, nhưng lại cố chấp bác bỏ đề nghị ngày ăn ba bữa của hắn.
Sách có câu, phàm là những việc đại sự trong thiên hạ, cứ ăn no trước rồi mới nghĩ được. Phỉ Tiềm nghênh ngang ngồi xếp bằng trên đất, kệ cụ ba tên Tôn Lưu Tào, ăn xong tính tiếp. Xem chừng lúc này Đổng Trác đã nhận được chiếu chỉ, chuẩn bị điều quân vào kinh thành, mình cũng phải chuẩn bị đường chạy thôi. Nhìn Phúc thúc chậm rãi bê một dĩa đồ ăn đến, hắn thầm nghĩ:
“Quên béng mất, phải thuyết phục ông chú nhà mình dời nhà đi chỗ khác đã, không thể để ổng ở lại đây được.”
Đại doanh quân Tây Lương được đặt ở bên sườn núi. Mấy chục tên lính cao to vạm vỡ đang cầm vũ khí phòng thủ xung quanh một căn lều, hiển nhiên bên trong có nhân vật quan trọng. Mặt sau lưng và hai bên hông lều được bọc một lớp lụa dày, chỉ chừa lại khe hỡ ở phía đông xem như lối ra vào, những cơn gió của buổi hoàng hôn nhẹ nhàng lướt qua chiếc bàn bày đầy rượu và hai dĩa đồ nhắm. Người đang ngồi trong lều mặc áo trắng, gương mặt vô cùng thư sinh, có một chòm râu dê nho nhỏ, phong độ khá đĩnh đạc, có điều vừa tự rót rượu vừa cau mày thở dài. Một lát sau có tiếng bước chân vang lên trong lều:
“Văn Ưu huynh thật có nhã hứng.”
Thư sinh áo trắng rót thêm một ly rượu rồi đẩy về phía đối diện:
Loading...
“Là Văn Hòa à, hôm nay đẹp trời, ngồi uống với ta một ly nhé.”
Hai người này chính là mưu sĩ cấp cao trong tập đoàn quân Tây Lương, Lý Nho và Giả Hủ. Giả Hủ giơ tay đón ly rượu uống cạn, không đợi Lý Nho lên tiếng đã tự rót cho mình rồi cười bảo:
“Lần gần nhất chúng ta uống rượu cùng nhau là ba năm trước nhỉ? Dạo này việc bận, có thể ngồi với huynh là vui rồi. À này, nơi đây chỉ có hai người chúng ta, huynh có cần cẩn thận đến thế không?”
Lý Nho nhìn chằm chằm vào ly rượu rồi nốc một hơi dài, sau đó tiếp tục chép miệng:
“Haha, thói quen cả, không sửa được nữa rồi, huynh cứ tự nhiên, không cần để ý đến ta.”
“Ừ, tùy huynh vậy.”
Giả Hủ để đũa qua một bên, thò tay bốc một miếng thịt bò bỏ vào miệng nhai. Lý Nho cũng không để ý chút lễ tiết phiền phức, hắn đặt ly rượu xuống nhìn xa xăm về phía đông.
“Văn Hòa, chỉ còn hơn trăm dặm nữa là đến Lạc Dương. Ta vốn cho rằng kiếp này đừng mong đặt chân đến đế đô, không ngờ tháng năm xoay vần cuối cùng vẫn về lại nơi đây.”
Hắn khép hờ mắt lại, tựa như khung cảnh Lạc Dương tráng lệ đang hiện ra trước mặt, lòng đầy xúc động. Giả Hủ nghe vậy đột nhiên im lặng, bỏ miếng thịt bò vào khay, nhúng ngón tay vô ly rượu mình rửa một hồi rồi uống luôn, sau đó cười khàn:
“Ừ nhỉ, đã hơn 300 năm, chúng ta lại về với cội nguồn.”
“Không, là 337 năm…”
“Văn Ưu huynh còn nhớ rõ à?”
“Làm sao không nhớ rõ được chứ? 337 năm, là 337 năm đó! Thế hệ trước của chúng ta bị đuổi đến tận khu chó ăn đá gà ăn sỏi, sống cùng đám người Khương Hồ, không có cơm ăn, không có giường ngủ, thậm chí ngay cả Hán phục ta cũng bắt đầu quên cách mặc rồi…”
Lý Nho gác tay sau đầu, tiếp tục thở dài:
“Hai mươi năm trước, ta cùng cha đi theo thương nhân người Hồ tới Lạc Dương buôn bán. Huynh biết không, ở đó thành phố vô cùng phồn hoa, đường phố sôi động, lụa lá gấm góc khắp nơi, haha ta cứ tưởng mình đặt chân đến thiên đường, cảm giác tất cả những gì tốt đẹp nhất của loài người đều được tập trung hết về đây. Nhưng… ta đã lầm, bởi vì ta ham chơi nên gây chuyện với lý trưởng (trưởng thôn) ở phường thị đó, vì vậy giữa mùa đông khắc nghiệt hai cha con ta bị lột sạch tài sản rồi ném ra ngoài, cũng may được một gia đình tốt bụng cho ở nhờ, nếu không đã chết cóng trong đêm đó.”
Giả Hủ im lặng đặt chén rượu xuống bàn, ngồi bên cạnh Lý Nho nhìn về phía đông.
“Lúc ta còn nhỏ, cha ta bị bệnh chướng bụng đầy hơi, ta đi khắp bộ lạc tìm một chút trà để giúp ông thoải mái hơn, đúng lúc gặp vài người từ Lạc Dương đến giao dịch. Ta quỳ gối trước cửa nhà họ cầu xin họ thương tình cho một chút trà để cha ta cảm thấy thoải mái hơn, thật ra đầy hơi thì không chết người được, nhưng ngươi biết tên kia nói gì không?”
Giả Hủ siết chặt cạnh bàn, ngón tay trở nên trắng bệch.
“Tên đó bảo cả nhà ta là lũ mọi rợ đất Hồ, có chết cũng đáng kiếp. Ha ha ha ha, chúng ta là lũ mọi rợ, cả sống cũng không xứng đáng!”
Sau đó cả hai người trở nên trầm mặc.
“Văn Ưu huynh, xin hãy nghe ta, lần này vào kinh vẫn chưa phải thời cơ thích hợp, ngoài ra Đổng Trọng Dĩnh tuy tính cách phóng khoáng nhưng bên trong bạo ngược hung tàn, không thích hợp để phò tá.”
“Ta biết chứ, nhưng thời gian không đợi người, bậc cha anh chúng ta có đến vài chục người thông minh trác tuyệt, nhưng truyền đến đời ta và ngươi còn được bao nhiêu người? Hai trăm trước gia tộc chúng ta đã thua trận một lần, bị đuổi khỏi Lạc Dương, bây giờ ta có thu thêm lần nữa thì có làm sao?”
Lý Nho rót một ly rượu, uống cạn rồi ném bay đi, chiếc ly vỡ nát sau khi va vào thành đá.
“Nếu thành, ta đại trị, nếu không thành, ta loạn thế!”